Đóng
 

Thứ năm, 28/03/2024 | 23:37
23:16  |  29/09/2019

[ĐÁNH GIÁ XE] Mercedes-Benz E300 AMG sau 2 năm sử dụng - Xe lắp ráp liệu có "tã"?

Chất lượng gia công của xe lắp ráp trong nước luôn là điều mà người tiêu dùng Việt đặc biệt quan tâm, nhất là ở phân khúc xe sang. Liệu chiếc Mercedes-Benz E300 AMG phiên bản lắp ráp trong nước có “hụt hơi” trước E300 AMG nhập khẩu từ Đức?

Người tiêu dùng Việt Nam không còn lạ gì với những chiếc Mercedes-Benz lắp ráp trong nước. Hãng xe Đức gần như chiếm lĩnh thị phần phân khúc xe sang. Theo những thống kê mới nhất của hãng, mẫu GLC đang chiếm thị phần hơn 90%, C-Class chiếm khoảng 70%, E-Class chiếm 80% và S-Class chiếm hơn 90%.

Sau năm 1996, Mercedes-Benz tiếp tục lắp ráp mẫu C200 vào năm 1998. Quãng 1999-2000 chứng kiện sự ra đời của E240. Và sự tăng trưởng mạnh mẽ tiếp tục nối dài khi ra mắt C200K, riêng trong năm 2001, mẫu xe này đã nhanh chóng đạt doanh số 74 xe. Tính cả mảng xe thương mại, Mercedes-Benz trong năm 2001 và 2002 chiếm 20% thị phần trên thị trường ô tô Việt Nam, đứng thứ 2 sau Toyota với 45% thị phần.

2004 là thời điểm hãng tiếp tục đầu tư mở rộng, nâng tổng vốn đầu tư của Mercedes-Benz Việt Nam lên 1,127 nghìn tỷ đồng. Đến năm 2005, hãng xe Đức gặp khó khăn do thuế linh kiện và ô tô tăng mạnh, doanh số cả năm chỉ đạt 172 xe.

Nhưng khó khăn cũng nhanh chóng qua đi. Giai đoạn 2006-2011, Mercedes-Benz liên tục ra mắt sản phẩm mới, cho đến 2012 chính thức chuyển đổi hình thức từ liên doanh sang công ty Trách nhiệm hữu hạn. 2012 cũng là năm Mercedes-Benz chiếm lĩnh 50% thị phần xe sang tại Việt Nam, và tính đến giữa năm 2019, đã có xấp xỉ 50.000 xe mang logo "ngôi sao ba cánh" được giao tới tay khách hàng Việt.

Tuy vậy, vẫn có những khách hàng đang đặt dấu hỏi cho chất lượng xe Mercedes lắp ráp tại Việt Nam. Đó là tâm lý chung của rất nhiều khách hàng tiềm năng của Mercedes, những người sẵn sàng bỏ nhiều tiền hơn để sở hữu hàng ngoại nhập. Khoảng giữa năm 2017, Mercedes-Benz Việt Nam đã quyết định lắp ráp toàn bộ dải sản phẩm E-Class đời W213 trong nước, trong đó có mẫu E300 AMG rất được ưa chuộng.

Quyết định này khiến nhiều người băn khoăn về chất lượng E-Class lắp ráp trong nước. Để tìm câu trả lời cho vấn đề này, chúng tôi đã mượn 2 chiếc Mercedes-Benz E300 AMG đã sử dụng với số kilô-mét đã đi tương đương nhau. Trong đó, chiếc màu trắng là phiên bản lắp ráp trong nước, màu đen là bản nhập khẩu nguyên chiếc. Vậy, liệu E-Class lắp ráp trong nước có nhanh “tã” hơn xe nhập Đức? Chúng ta hãy cùng tìm hiểu.

So sánh ngoại thất

Những chi tiết ngoại thất thường kể nhiều câu chuyện về chiếc xe trước mắt chúng ta. Liệu xe đã đâm đụng hay chưa, chủ xe có chăm sóc kỹ hay không, tất cả đều được để hiện bằng những dấu vết trên thân xe. Việt Nam là một đất nước nóng ẩm nên thông thường, màu sơn xe sẽ chóng bị lão hóa, đặc trưng là màu trắng sẽ sớm bị ố vàng còn màu đen sẽ mất đi độ sâu, độ bóng bẩy nếu thường xuyên phơi nắng.

Nhìn ngắm kỹ 2 chiếc E300 AMG, có thể nhận định rằng chất lượng sơn của cả 2 chiếc xe đều rất tốt. Chiếc E300 lắp ráp trong nước vẫn giữ được màu trắng “Ngọc Trinh”, không một vết ố vàng, trong khi chiếc E300 AMG nhập khẩu có nước sơn đen vẫn còn rất sâu và đậm đà. So sánh trực tiếp 2 xe lắp ráp và nhập khẩu, có thể thấy chất lượng sơn hoàn toàn tương đồng, thậm chí mật độ và độ dày của lớp phủ óng ánh nằm trên lớp sơn màu cũng không hề khác biệt giữa 2 xe. Điều đó cho thấy Mercedes-Benz Việt Nam đã áp dụng quy trình sơn tương đồng  với nhà máy ở Đức.

Phân xưởng sơn trong nhà máy Mercedes-Benz Việt Nam được xây dựng trên diện tích gần 5.000 m2 với tổng vốn đầu tư khoảng 10 triệu USD, phân xưởng sơn nhúng tĩnh điện có 2 chức năng chính là xử lý bề mặt và sơn tĩnh điện cho khung xe. Công nghệ sơn được Mercedes-Benz sử dụng là zircobond và lớp phủ kim loại chuyển tiếp zirconium, giúp lớp sơn phủ của xe chịu nhiệt và chống ăn mòn tốt.

Tổng cộng quá trình sơn phủ cho xe sẽ gồm có 16 công đoạn nhỏ, gồm 9 công đoạn về zircobond hóa và 7 công đoạn về sơn nhúng tĩnh điện, tổng thời gian của quá trình khoảng 120 phút. Mercedes-Benz cho biết dây chuyền sơn nhúng tĩnh điện giảm 40% tiêu thụ điện và 30% nước thải so với công nghệ sơn tĩnh điện phốt phát cũ. Trong khi đó, nước thải cũng sẽ được xử lý kĩ để loại bỏ các kim loại nặng và chất nguy hại trước khi xả ra môi trường bên ngoài.

Tiêu chí thứ 2 tôi dùng để đánh giá chất lượng lắp ráp xe là độ khít của các tấm thân xe. Cụ thể, đó là độ khít giữa nắp capô và tai xe, giữa nắp khoang hành lý và cột C và giữa các cửa xe và khung xe. Đây là các vị trí thường xuyên đóng mở và nếu chất lượng lắp ráp có vấn đề thì chúng ta dễ dàng có thể phát hiện bằng mắt thường. Điều đáng ngạc nhiên ở đây là chiếc E300 AMG lắp ráp (màu trắng) lại có khoảng trống giữa các tấm thân xe khít hơn và đều hơn bản nhập Đức! Nghe có vẻ khó tin nhưng thực sự, phải chứng kiến tận mắt thì tôi mới thấy được chất lượng xe Mercedes-Benz lắp ráp trong nước tốt như thế nào.

Về ngoại thất, xe lắp ráp trong nước cũng chiếm ưu thế ở bộ đèn pha LED Multi Beam, xe nhập khẩu chỉ có đèn LED tiêu chuẩn. Cụm đèn Multi-beam LED này là sự khác biệt dễ nhận thấy nhất giữa E300 bản lắp ráp trong nước và E300 nhập (chỉ có đèn LED tiêu chuẩn). Cụm đèn Multi-beam có tới 84 đi-ốt LED cường độ cao cho khả năng chiếu sáng từng vùng nhằm tránh làm lóa mắt người đi đối diện. Bên cạnh các đèn pha LED thông minh, xe còn có bốn dải đèn Led định vị chạy dọc xuống mũi xe nhìn rất độc đáo. Dù E300 AMG bản lắp ráp rẻ hơn bản nhập xấp xỉ 300 triệu nhưng trang bị đèn chiếu sáng thông minh này là một điểm cộng lớn.

Một điểm khác biệt dễ nhận thấy nữa là E300 AMG lắp ráp có bộ vành AMG 19 inch đơn màu, trong khi bản nhập khẩu có vành cũng mang thiết kế tương tự nhưng được sơn 2 màu tương phản. Nhìn chung, những tiêu chí về độ hoàn thiện ngoại thất giữa 2 chiếc E300 AMG lắp ráp và nhập khẩu là gần như tương đồng. Thậm chí, cá nhân tôi thấy xe lắp ráp có phần trội hơn xe nhập sau 2 năm sử dụng tại Việt Nam. Bên cạnh đó còn là những trang bị tốt hơn trên E300 AMG lắp ráp, điển hình là cụm đèn Multi Beam.

So sánh nội thất

Khoang nội thất của Mercedes-Benz E-Class xứng đáng với nhiều lời khen mà các chuyên gia thử xe trong và ngoài nước dành cho mẫu xe này. Cá nhân tôi là “fan BMW” nhưng tôi vẫn phải thừa nhận rằng nếu so nội thất BMW Series 5 đời G30 và E-Class W213, nhất là các phiên bản đang được phân phối tại Việt Nam thì E-Class vẫn mang lại cảm giác sang trọng hơn cả về thẩm mỹ lẫn công năng. Các kỹ sư Mercedes mất đúng 4 tháng để tạo nên hình dáng khoang nội thất chiếc E-Class bằng đất sét. Họ đã vô cùng tỷ mẩn và không chạy đua với thời gian. Kết quả là một khoang nội thất sở hữu mọi điểm mạnh truyền thống của hãng: thiết kế đẹp, vật liệu cao cấp và tiện nghi ngập tràn.

Trở lại với 2 chiếc Mercedes E300 AMG lắp ráp và nhập khẩu, những khác biệt về nội thất là không nhiều. Phiên bản nhập khẩu nguyên chiếc có gói nước hoa Air Balance, trong khi bản lắp ráp lại nhỉnh hơn về mặt hỗ trợ người lái với trang bị Hiển thị kính lái (HUD). Cá nhân tôi sẽ đánh giá cao HUD hơn nước hoa vì nó giúp việc lái xe nhàn nhã và an toàn hơn, người lái đỡ phải liếc xuống bảng đồng hồ để nắm bắt những thông số vận hành cơ bản của chiếc xe. Hơn nữa, nếu bạn thực sự muốn độ nước hoa Air Balance cho chiếc E300 AMG lắp ráp trong nước của mình thì chỉ cần bỏ ra khoảng 20 triệu đồng, có rất nhiều cửa hàng đồ chơi xe hơi sẽ làm điều đó. Như vậy, về mặt trang bị thì 2 chiếc E300 AMG lắp ráp và nhập khẩu cũng khá tương đồng, vậy còn về độ bền của các chi tiết da, nhựa thì sao?

Trong khoang cabin, chi tiết dễ bị lão hóa bởi ánh nắng nhất là đỉnh táp lô. Đây là vị trí hứng chịu ánh nắng buổi trưa và chúng ta không thể dán đen kính lái được. Đáng mừng là ở trên cả 2 xe thử nghiệm, phần da bọc đỉnh táp lô đều còn như mới, vẫn giữ nguyên độ mềm mại và không bị bạc màu. Điều đó cho thấy chất lượng da bọc táp lô của Mercedes-Benz là rất tốt.

Một điểm nữa tôi cũng nhận thấy trên 2 chiếc xe này là cho dù phơi nắng rất lâu nhưng khi mở cửa, tôi không thấy mùi khó chịu trong xe. Đó là đặc trưng của xe sang. Các hãng sản xuất xe đắt tiền thường rất kỹ càng khi chọn lựa vật liệu da, nhựa trong xe để hạn chế mùi khó chịu. Nhắc đến mùi, tôi tiếp tục dành sự tán thưởng cho những tấm da Nappa bọc ghế. Da bọc ghế vẫn mềm mịn và giữ được mùi thơm nhẹ giống như xe mới và quan trọng nhất là những vị trí thường xuyên chịu lực tác động trên ghế lái vẫn không bị bẹp hay nhăn. Tất nhiên, ta cần đến 3, 4 năm nữa để đánh giá chính xác về độ bền da Nappa trên E300 AMG, nhưng sau 2 năm sử dụng, da bọc ghế của cả 2 xe trong bài so sánh đều hoàn hảo như mới.

Trải nghiệm

Như vậy, cả 2 chiếc xe Mercedes E300 AMG lắp ráp và nhập khẩu đều đã vượt qua bài kiểm tra về mặt thẩm mỹ. Về mặt trải nghiệm, 2 chiếc xe này có gì khác biệt sau 2 năm sử dụng và 1,5 vạn kilô-mét đã lăn bánh?

Hãy điểm qua thông số của 2 mẫu xe này. E300 AMG được trang bị động cơ 4 xy-lanh thẳng hàng tăng áp, dung tích 2.0 lít. Động cơ này sản sinh công suất 244 mã lực tại 5.500 vòng/phút và lực mô-men xoắn cực đại 370 Nm tại dải tua máy 1.300 – 4.000 vòng/phút. Lực kéo được truyền xuống bánh sau qua hộp số tự động 9 cấp 9G-TRONIC. Trên lý thuyết, Mercedes-Benz E300 AMG cần 6,2 giây để tăng tốc lên 100 km/h trước khi đạt tốc độ tối đa 250 km/h. Chiếc xe có 5 chế độ lái: Eco, Sport, Sport+, Comfort và Individual.

Khi đo thực tế, cả 2 mẫu xe đều tăng tốc lên 100 km/h trong khoảng 8 giây. Đây là thông số chấp nhận được vì lốp xe đã sử dụng được 2 năm và điều kiện mặt đường cũng không thực sự tốt. Ở chế độ Sport và Sport+, phản ứng chân ga tương đối nhạy bén và gần 250 mã lực là quá đủ để đem lại sự phấn khích sau vô lăng. Dù vậy, tôi có thể cảm nhận được độ trễ tăng áp khá rõ ràng dù đã chủ động dồn số thấp để đẩy vòng tua máy lên cao. Tuy nhiên, khung gầm vẫn vô cùng chắc chắn khi vào cua ở tốc độ cao với hiện tượng nghiêng thân xe được kiểm soát tốt.

Về mặt vận hành, cả 2 chiếc đều không có sự khác biệt và không quá lời khi nói chúng vẫn mang lại trải nghiệm lái chẳng khác gì xe mới. Khả năng cách âm của bộ đôi E300 AMG cũng rất đáng khen ngợi: chỉ cần khẽ đóng cửa hít, thế giới ồn ào bên ngoài dường như tan biến ngay lập tức. Khẽ thả mình theo tiếng nhạc du dương từ dàn âm thanh Burmester hàng hiệu, tôi như đắm mình vào một thế giới riêng, chỉ có ta và âm nhạc. Về mặt tiện nghi, tôi nhận thấy chiếc E300 AMG nhập khẩu có dàn điều hòa làm mát kém hơn xe lắp ráp. Dù đã để mức gió lớn nhất và nhiệt độ thấp tối đa nhưng khoang cabin chiếc E300 AMG nhập khẩu cũng không có độ mát sâu như xe lắp ráp. Đây là điều cần lưu ý bởi ở một đất nước nóng như Việt Nam, khả năng làm mát của hệ thống điều hòa là rất quan trọng.

Kết luận

Sau 1 ngày trải nghiệm Mercedes-Benz E300 AMG bản lắp ráp và nhập khẩu, tôi có thể kết luận rằng về mọi yếu tố khách quan về mặt cơ khí, 2 chiếc xe này đều tương đồng nhau. Chiếc xe lắp ráp thậm chí còn trội hơn ở hệ thống đèn Multi Beam, hệ thống hiển thị trên kính lái và dàn điều hòa mát lạnh. Đó là còn chưa kể đến mức giá rẻ hơn khoảng 280 triệu đồng. Như vậy, việc Mercedes-Benz Việt Nam lắp ráp E-Class trong nước đã mang lại những lợi ích thiết thực cho khách hàng trong nước. Dù câu chuyện xe nhập hay xe lắp ráp tốt hơn vẫn sẽ còn tiếp diễn nhưng với riêng dòng E-Class và nhiều dòng xe khác của Mercedes-Benz Việt Nam, xe lắp ráp trong nước là lựa chọn tốt hơn.

Vĩ Phạm (Tuoitrethudo)