Đóng
 

Thứ bảy, 27/04/2024 | 21:51
11:36  |  19/07/2023

Những thay đổi quan trọng trong dự thảo Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ mới cần chú ý

Bộ Công an đang lấy ý kiến về dự thảo Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ mới nhất. Luật này không chỉ kế thừa mà còn sửa đổi, bổ sung nhiều nội dung tại Luật Giao thông đường bộ năm 2008. Sau đây là một số thay đổi quan trọng tại Luật Giao thông sửa đổi.  

Đổi, cấp lại bằng lái xe theo phân hạng mới

Theo dự thảo Luật trật tự, an toàn giao thông đường bộ, Giấy phép lái xe bao gồm các hạng:

Hạng A2 cấp cho người lái xe mô tô hai bánh có dung tích xi-lanh từ 50 cm3 đến 175 cm3 hoặc có động cơ có công suất định mức tương đương;

Hạng A cấp cho người lái xe mô tô hai bánh có dung tích xi-lanh từ 175 cm3 trở lên hoặc động cơ có công suất định mức tương đương và các loại xe quy định cho giấy phép lái xe hạng A2;

Hạng A3 cấp cho người lái xe mô tô ba bánh và các loại xe quy định cho giấy phép lái xe hạng A2;

Hạng B cấp cho người lái xe ô tô chở người đến 9 chỗ ngồi (kể cả chỗ của người lái xe); xe ô tô tải (kể cả ô tô tải chuyên dùng), máy kéo có khối lượng hàng chuyên chở theo thiết kế không vượt quá 3.500 kg; các loại xe ô tô quy định cho giấy phép lái xe hạng B có gắn kèm rơ mooc với khối lượng toàn bộ thiết kế của rơ mooc không vượt quá 750 kg; các loại xe quy định cho giấy phép lái xe hạng B2;

Hạng C1 cấp cho người lái xe ô tô tải (kể cả ô tô tải chuyên dùng, ô tô chuyên dùng), máy kéo có khối lượng hàng chuyên chở theo thiết kế trên 3.500 đến 7.500 kg; các loại xe ô tô tải quy định cho giấy phép lái xe hạng C1 có gắn kèm rơ mooc với khối lượng toàn bộ thiết kế của rơ mooc không vượt quá 750 kg; các loại xe quy định cho giấy phép lái xe các hạng B;

Hạng C cấp cho người lái xe ô tô tải (kể cả ô tô tải chuyên dùng, ô tô chuyên dùng), máy kéo có khối lượng hàng chuyên chở theo thiết kế trên 7.500 kg; các loại xe ô tô tải quy định cho giấy phép lái xe hạng C có gắn kèm rơ moóc với khối lượng toàn bộ thiết kế của rơ moóc không vượt quá 750kg; các loại xe quy định cho giấy phép lái xe các hạng B, C1;

Hạng D2 cấp cho người lái xe ô tô chở người (kể cả ô tô buýt) từ 10 đến 30 chỗ; các loại xe ô tô chở người quy định cho giấy phép lái xe hạng D2 có gắn kèm rơ moóc với khối lượng toàn bộ thiết kế của rơ moóc không vượt quá 750kg; các loại xe quy định cho giấy phép lái xe các hạng B, C1, C;

Hạng D cấp cho người lái xe ô tô chở người (kể cả ô tô buýt) trên 30 chỗ; xe ô tô chở người giường nằm; các loại xe ô tô chở người quy định cho giấy phép lái xe hạng D có gắn kèm rơ moóc với khối lượng toàn bộ thiết kế của rơ moóc không vượt quá 750kg; các loại xe quy định cho giấy phép lái xe các hạng B, C1, C, D2;

Hạng BE cấp cho người lái xe để lái các loại xe ô tô quy định cho giấy phép lái xe hạng B khi kéo rơ moóc với khối lượng toàn bộ thiết kế của rơ moóc trên 750 kg;

Hạng C1E cấp cho người lái xe để lái các loại xe ô tô quy định cho giấy phép lái xe hạng C1 khi kéo rơ moóc với khối lượng toàn bộ thiết kế của rơ moóc trên 750 kg;

Hạng CE cấp cho người lái xe để lái các loại xe ô tô quy định cho giấy phép lái xe hạng C khi kéo rơ moóc với khối lượng toàn bộ thiết kế của rơ moóc trên 750 kg; xe ô tô đầu kéo kéo sơ mi rơ mooc;

Hạng D2E cấp cho người lái xe để lái các loại xe ô tô quy định cho giấy phép lái xe hạng D2 khi kéo rơ moóc với khối lượng toàn bộ thiết kế của rơ moóc trên 750 kg;

Hạng DE cấp cho người lái xe để lái các loại xe ô tô quy định cho giấy phép lái xe hạng D khi kéo rơ moóc với khối lượng toàn bộ thiết kế của rơ moóc trên 750 kg.

Bên cạnh đó, người khuyết tật điều khiển xe mô tô ba bánh dùng cho người khuyết tật được cấp giấy phép lái xe hạng A2.

Người khuyết tật điều khiển xe ô tô có cơ cấu điều khiển phù hợp với tình trạng khuyết tật được cấp giấy phép lái xe hạng B.

Trường hợp xe được thiết kế, cải tạo số chỗ ít hơn xe cùng kiểu loại, kích thước giới hạn tương đương thì hạng giấy phép lái xe được tính theo xe cùng kiểu loại, kích thước giới hạn tương đương.

Bỏ giấy phép lái xe hạng A1, B1, B2, E và các hạng F

Theo Điều 59 Luật Giao thông đường bộ, các hạng giấy phép lái xe tại Việt Nam bao gồm: Giấy phép lái xe không có thời hạn (hạng A1, A2, A3) và giấy phép lái xe có thời hạn (hạng A4, B1, B2, C, D, E, FB2, FD, FE).

Tại dự thảo Luật mới, Bộ Công an đang đề xuất thay đổi các hạng giấy phép lái xe. Trong đó, bỏ quy định về giấy phép lái xe hạng A1, B1, B2, E và các hạng F, thay vào đó là các hạng bằng lái mới bao gồm: Hạng A2, A, A3, B, C1, C, D2, D, BE, C1E, CE, D2E, DE.

Đề xuất giấy tờ xe đã đồng bộ vào VNeID thì không phải mang theo người

Tại Điều 38, dự thảo Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ quy định, người lái xe tham gia giao thông đường bộ phải có giấy phép lái xe phù hợp với loại xe đang điều khiển, trừ người lái xe gắn máy (người lái xe gắn máy tham gia giao thông đường bộ phải đủ điều kiện về độ tuổi và sức khỏe theo quy định).

Theo quy định, khi tham gia giao thông, người lái xe phải mang theo các giấy tờ sau:

Chứng nhận đăng ký xe;

Giấy phép lái xe phù hợp với loại xe đang điều khiển;

Giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường đối với xe cơ giới theo quy định của pháp luật;

Giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới.

"Trường hợp thông tin của các loại giấy tờ trên đã được đồng bộ vào tài khoản định danh điện tử thì không phải mang theo", dự thảo nêu.

Chưa hết, người điều khiển xe máy chuyên dùng phải có bằng hoặc chứng chỉ điều khiển xe máy chuyên dùng phù hợp loại xe máy chuyên dùng đang điều khiển và một trong các loại giấy phép lái xe quy định tại khoản 1 Điều 39 của Luật này hoặc chứng chỉ bồi dưỡng kiến thức pháp luật về giao thông đường bộ. Khi tham gia giao thông, người điều khiển xe máy chuyên dùng phải mang theo các loại giấy tờ sau:

Chứng nhận đăng ký xe;

Bằng hoặc chứng chỉ điều khiển và giấy phép lái xe hoặc chứng chỉ bồi dưỡng kiến thức pháp luật về giao thông đường bộ;

Giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường đối với xe máy chuyên dùng theo quy định của pháp luật;

Giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật.

Trong trường hợp thông tin của các loại giấy tờ trên đã được đồng bộ vào tài khoản định danh điện tử thì không phải mang theo. Khi luật có hiệu lực, người dân chỉ cần mở ứng dụng VNeID cho CSGT kiểm tra.

Bên cạnh đó, tại khoản 5 Điều 54, dự thảo Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ cũng quy định: Khi tuần tra, kiểm soát, trường hợp thông tin giấy tờ của phương tiện, người điều khiển phương tiện đã được đồng bộ vào tài khoản định danh điện tử (VNeID) thì CSGT thực hiện kiểm soát các thông tin giấy tờ đó trên tài khoản định danh điện tử.

Đề xuất các trường hợp cảnh sát giao thông được dừng xe

Theo đó, cảnh sát giao thông được dừng xe để kiểm soát thuộc một trong các trường hợp sau:

Khi phát hiện hành vi vi phạm pháp luật hoặc có căn cứ xác định có hành vi vi phạm pháp luật.

Những hành vi vi phạm pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ mà buộc phải dừng xe để kiểm soát trực tiếp mới phát hiện được.

Có văn bản đề nghị của cơ quan có thẩm quyền về việc dừng xe để kiểm soát phục vụ bảo đảm an ninh, trật tự; phòng, chống thiên tai, hỏa hoạn; cứu nạn, cứu hộ; phòng, chống dịch bệnh.

Có tin báo, tố giác, phản ánh, kiến nghị của tổ chức, cá nhân về tội phạm, hành vi vi phạm pháp luật.

So với quy định hiện hành của Luật Giao thông đường bộ 2008, các nghị định, thông tư của Bộ Công an liên quan, các trường hợp cảnh sát giao thông được dừng xe có nhiều điểm mới hơn.

Như việc dừng xe để phòng, chống thiên tai, hỏa hoạn; cứu nạn, cứu hộ, phòng, chống dịch bệnh, có tố giác về tội phạm, hành vi vi phạm pháp luật…

Đề xuất trẻ dưới 10 tuổi không được ngồi ghế trước ô tô

Trong khuôn khổ kỳ họp thứ 5 vừa qua, Quốc hội đã đồng ý tách Luật Giao thông đường bộ thành Luật Đường bộ và Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ, dự kiến góp ý lần đầu vào kỳ họp thứ 6 (tháng 10/2023).

Cụ thể, tại Điều 9 của dự thảo Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ có quy định: Trẻ em dưới 10 tuổi hoặc chiều cao dưới 1,35 mét được chở trên xe ô tô con không được ngồi cùng hàng ghế của người lái xe khi tham gia giao thông đường bộ.

Ngoài ra, trẻ em dưới 4 tuổi phải được chở bằng ghế thiết kế dành cho trẻ em, trừ ôtô kinh doanh vận tải hành khách theo quy định của pháp luật đường bộ. Người lái xe phải kiểm tra, hướng dẫn việc thắt dây an toàn cho trẻ em.

Trên thực tế, tại Việt Nam, nhiều gia đình thường có thói quen để trẻ ngồi cùng hàng với ghế lái, hoặc mẹ bế con ngồi bên cạnh ghế lái. Nếu dự thảo luật trên được thông qua, nhiều gia đình sẽ phải thay đổi thói quen trên.

Đề xuất nhường đường cho người đi bộ, xe lăn của người khuyết tật qua đường

Điểm mới tiếp theo là tại nơi có vạch kẻ đường hoặc báo hiệu khác dành cho người đi bộ, người lái xe phải quan sát, giảm tốc độ hoặc dừng lại nhường đường cho người đi bộ, xe lăn của người khuyết tật qua đường.

Không chỉ vậy, ngay tại nơi không có vạch kẻ đường cho người đi bộ, người lái xe cũng phải quan sát, nếu thấy người đi bộ hoặc xe lăn của người khuyết tật đang qua đường hoặc có tín hiệu qua đường thì phải giảm tốc độ hoặc dừng lại nhường đường cho người đi bộ, xe lăn của người khuyết tật qua.

Đề xuất mới về việc sử dụng đèn xe

Dự thảo Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ đề xuất, người lái xe tham gia giao thông khi có sương mù, khói, bụi, trời mưa, thời tiết xấu làm hạn chế tầm nhìn phải bật sáng các loại đèn sau:

Đèn chiếu sáng phía trước là đèn chiếu xa hoặc đèn chiếu gần;

Đèn soi biển số sau;

Đèn vị trí được trang bị theo thiết kế của xe.

Bên cạnh đó, dự thảo này cũng yêu cầu lái xe phải tắt đèn chiếu xa, bật đèn chiếu gần để tránh gây lóa cho người tham gia giao thông khác trong các trường hợp như:

Khi gặp người đi bộ qua đường.

Khi đi trên các đoạn đường qua khu dân cư có bố trí hệ thống chiếu sáng và đang hoạt động.

Khi gặp xe đi ngược chiều.

Khi chuyển hướng xe tại nơi đường giao nhau.

Bổ sung quy định về sử dụng làn đường

So với quy định hiện hành, Điều 12 dự thảo Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ đã bổ sung thêm 02 nội dung mới liên quan đến việc sử dụng làn đường. Cụ thể:

Trên làn đường dành riêng cho một loại phương tiện, người điều khiển loại phương tiện khác không được đi vào làn đường đó. Nơi có làn đường dành cho xe ưu tiên, chỉ xe ưu tiên mới được đi vào làn đường ưu tiên.

Trên đường hai chiều có từ hai làn xe trở lên trên một chiều xe chạy, phương tiện tham gia giao thông của chiều này không được đi vào làn đường của chiều ngược lại.

TH (Tuoitrethudo)